Cùng với dịch vụ vận tải, dịch vụ logistics phát triển chính là yếu tố then chốt thúc đẩy cho ‘dòng chảy’ hàng hóa xuất khẩu được nối tiếp. Tuy nhiên, đây vẫn đang là “điểm yếu” của VN.
Những bất cập về hạ tầng giao thông, kho bãi, các quy định pháp lý, cơ chế chế độ và quy hoạch trở nên tân tiến ngành… đang khiến ngành logistics kém cuốn hút để thu hút đầu tư.
Loạt bài sẽ nhận diện nguyên nhân của rất nhiều bất cập nêu trên từ góc độ của chính các DN xuất khẩu, DN logistics để cùng các cơ quan chức năng đưa ra phương án tháo gỡ, thúc đẩy dịch vụ logistic trở nên tân tiến.
Kỳ 1: Nhận diện những tiêu giảm của logistics ở Việt Nam
Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, tính kết nối còn hạn chế… cũng khiến chi phí lưu kho trong tổng chi phí logistics tăng cao.
Sự tăng trưởng của xuất khẩu nước ta những năm qua mang về tiềm năng lớn cho ngành logistics. Tuy vậy, cơ sở hạ tầng giao thông yếu kém và chi phí logistics cao làm giảm đáng kể năng lực chuyên môn cạnh tranh của hàng hóa và các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo Báo cáo Logistics nước ta 2020, dựa trên công thức phần trăm % của chi phí logistis tương đương với GDP phụ thuộc vào tổng chi phí logistics và tổng GDP, Công ty tư vấn ALG của Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính chi phí logistics theo GDP của Việt Nam năm 2018 khoảng 16,8%, tương đương giá trị khoảng 42 tỷ USD.
World Bank xếp logistics VN đứng vị trí thứ 39/160 quốc gia trên thế giới và thứ 3 trong ASEAN, chỉ xếp sau Singapore và Đất Nước Thái Lan, và tăng 35 bậc so với năm 2016.
Còn theo Niên giám thống kê vận tải và logistics của Ngân hàng Thế giới và Bộ GTVT năm 2018 chào làng hồi tháng 5/2020 cho biết, chi phí logistics trên doanh thu của doanh nghiệp trên toàn quốc chiếm 8,96% với các doanh nghiệp sản xuất và 9,7% doanh nghiệp phân phối, bình quân là 9,37% với các doanh nghiệp sản xuất và phân phối. trong số đó, chi phí vận tải vẫn luôn là thành phần chiếm phần trăm cao nhất trong tổng chi phí logistics.
Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ; thiếu trung tâm logistics cấp quốc gia, nước ngoài tại khoanh vùng kinh tế trọng điểm để làm đầu mối phân phối hàng hoá. Vận tải đa phương thức để kết hợp ưu điểm của các phương thức vận tải cũng chưa cải cách và phát triển hiệu quả ở nước ta.
Kết nối giữa các phương thức vận tải còn hạn chế vẫn tiếp tục là Nguyên do dẫn đến chi phí vận tải tại nước ta còn khá cao, thiếu tính cạnh tranh.
Nghịch lý: thừa - thiếu
Vận tải đường bộ chiếm Thị Trường chính trong vận tải hàng hoá tại nước ta. Việc quá phụ thuộc vào đường bộ đối với vận tải hàng hoá là sự việc không mới. Trong đề án tái cơ cấu ngành vận tải từ năm 2015, Chính phủ đã đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ giảm thị phần vận tải hàng hoá đường bộ xuống còn 54%.
tuy vậy, tại Hội nghị toàn quốc về Logistics (tháng 4/2018), thị phần vận tải đường bộ vẫn được chào làng chiếm gần 80%.
Mặc dù hệ thống giao thông đường bộ đã được đầu tư từ khóa lâu nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và tốc độ cải cách và phát triển của cả nền kinh tế.
Đại diện hiệp hội cộng đồng Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) cho biết, nhiều cung đường chật hẹp, năng lực vận tải thấp, tình trạng kẹt xe thường xuyên diễn ra nên không thể sử dụng được cho vận tải hàng hoá nặng, như khu vực cảng Cát Lái (TPHCM). Nhiều khu công nghiệp xây dựng xong nhưng chưa có đường giao thông hoặc bố trí quá xa hệ thống cảng biển, làm chi phí vận tải đội lên rất to lớn.
Chưa kể đến việc chi phí phi chính thức trong vận tải đường bộ còn cao do giới hạn về tải trọng tương tự như khung giờ hoạt động vui chơi của xe tải chật chội so với nhu cầu vận chuyển của doanh nghiệp.
Nhiều trạm thu phí với mức cao hoặc đặt vị trí không phù hợp lý dẫn đến việc lái xe tìm cách vòng vào các đường nhỏ, cũ để ‘né’ trạm thu phí, gây tắc đường và xuống cấp trầm trọng các đường tỉnh lộ.
Với hơn 90% hàng hoá xuất nhập khẩu của nước ta thông qua cảng biển nhưng theo đại diện VLA, việc phân bổ cảng biển hiện tại đang trong tình trạng “chỗ thừa, chỗ thiếu”.
Ví dụ, tại Đồng bằng sông Cửu Long (BĐBSCL) đang có khoảng 65% hàng nông sản, 70% hàng hoa quả xuất khẩu, Tuy nhiên, khoanh vùng này thiếu cảng nước sâu cho nên hàng hoá xuất nhập khẩu đều phải qua các cảng biển tại TPHCM và Bà Rịa-Vũng Tàu.
“Nếu hàng hoá được xuất khẩu trực tiếp, chi phí logistics phát sinh trong vận chuyển hàng hoá sẽ được kéo giảm đáng kể. Đơn cử, giá cước vận chuyển gạo sẽ giảm khoảng 10 USD/tấn so với việc phải chuyển từ ĐBSCL về TPHCM bằng đường bộ”, đại diện VLA đánh giá.
Cùng quan điểm, đại diện Đồng Tâm Group (doanh nghiệp vừa có hàng hóa xuất khẩu, vừa đầu tư vào hệ thống cảng biển) phân tích, bây giờ do nơi ĐBSCL chưa có hệ thống cảng biển cho nên 70 đến 80% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của ĐBSCL phải dồn hết lên cụm cảng TPHCM bằng đường bộ, làm tăng áp lực giao thông đường bộ trên QL1 và TPHCM, thường xuyên gây nên tình trạng kẹt xe, tai nạn giao thông.
“Chi phí hàng hóa tăng cao từ 170 đến 180 USD/container hoặc từ 7 đến 10 USD/tấn chi phí vận chuyển và lưu kho. thời điểm vận chuyển kéo dài, bất lợi đối với hàng nông sản và giảm ưu thế canh tranh của nông sản hàng hóa khoanh vùng đồng bằng sông Cửu Long”, vị này phân tích thêm.
Hiệp hội Cảng biển VN đánh giá và nhận định, bây giờ ngoài cảng cửa ngõ nước ngoài Hải Phòng (Lạch Huyện), cảng biển VN đang dần “không tân tiến” với xu thế container hoá của thế giới bởi tình trạng phân mảnh, các bến cảng thiếu sự liên thông.
Điển hình nhất là cụm cảng Cái Mép-Thị Vải. Hiện, các cảng container thế giới khoanh vùng Cái Mép-Thị Vải chỉ có chiều dài cầu cảng khoảng 600m. Trong lúc ấy, theo nghiên cứu và điều tra của hãng support Alphaliner, dự kiến đến năm 2021, những tàu container sức chở đến 18.000 TEU sẽ chiếm khoảng 70% lượng tàu hoạt động trên tuyến Á-Âu. Như vậy, với quy mô cỡ tàu lớn, các cầu cảng ở Cái Mép-Thị Vải sẽ khó có thể đón 2 tàu mẹ cùng lúc nếu không mở rộng chiều dài bến.
Kết nối giao thông cũng là “điểm nghẽn” phát triển cảng biển. Hầu hết các trục đường kết nối đến các cảng khu vực như Hải Phòng, Bà Rịa-Vũng Tàu, TPHCM có quy mô chưa tương xứng với kĩ năng cảng biển. Các cụm cảng Lạch Huyện, Cái Mép-Thị Vải, mặc dù được quy hoạch là cảng cửa ngõ, trung chuyển thế giới nhưng lại chưa có kết nối đường sắt, kết nối với đường thuỷ còn yếu, dẫn tới hàng hoá chủ yếu thông thương bằng đường bộ, các trục đường thường xuyên tắc nghẽn.
Vận tải đường sắt hiện ở vị trí khá khiêm tốn bởi thời điểm chạy tàu hàng lúc này quá dài và chi phí còn cao so với vận tải biển, chưa khác hoàn toàn về khổ lồng so với chuẩn thế giới và thủ tục chuyển tải còn phức tạp.
Nhưng lý do cơ bản để đường sắt chưa thể sửa chữa đường bộ là việc cải tạo hệ thống đường sắt, nâng cấp tàu, hiện đại hoá phương tiện bốc dỡ… rất tốn kém và không mang lại tác dụng ngay lập tức.
Vận chuyển hàng không chỉ chiếm phần rất nhỏ trong tổng khối lượng hàng hoá vận chuyển của nước ta nhưng chiếm đến 25% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Đối với vận tải hàng không, bất cập lúc bấy giờ mới chỉ có 2 cảng hàng không nước ngoài có trung tâm kho hàng hoá thế giới là Tân Sơn Nhất và Nội Bài. nước ta chưa có hãng hàng không nào có máy bay chuyên chở hàng hoá, Hầu hết hàng hoá đều đặt dưới bụng máy bay chở khách, khiến sản lượng hàng hoá vận chuyển bị tinh giảm.
Hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, tính kết nối còn tiêu giảm… cũng khiến chi phí lưu kho trong tổng chi phí logistics tăng cao. Quy mô và phạm vi dịch vụ các trung tâm logistics của Việt Nam rất ít và quy mô nhỏ, chỉ phục vụ một số doanh nghiệp trong khoanh vùng khu công nghiệp hoặc 1 địa phương, chưa trở nên tân tiến đến quy mô phục vụ 1 ngành hoặc 1 vùng kinh tế. Thiết bị xếp dỡ lạc hậu, không đồng bộ, làm chậm quy trình bốc dỡ, gây hỏng hóc hàng hoá.
Công ty tư vấn ALG của Ngân hàng Thế giới (WB) ước tính chi phí logistics theo GDP của Việt Nam năm 2018 khoảng 16,8%, tương đương giá trị khoảng 42 tỷ USD.
Thủ tục chồng chéo
Về pháp lý, cho tới lúc này, quy định về kinh doanh dịch vụ logistics mới chỉ có Nghị định 163/2017/NĐ-CP (có hiệu lực từ 20/2/2018) quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Các quy định khác nằm rải rác ở những văn bản Luật khác và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trao đổi với Báo Điện tử Chính phủ, đại diện Cục Xuất nhập khẩu cho biết, hiệu quả thực thi lao lý về lĩnh vực logistics chưa đồng bộ. Đơn cử, khi rà soát với các cam đoan của Hiệp định Thương mại tự do nước ta-Liên minh châu Âu (EVFTA) thì Luật Hải quan nước ta về cơ bản tương thích với pháp luật hải quan các nước. Tuy nhiên, trên thực tế, hiệu quả đo thời gian giải phóng hàng hoá xuất nhập khẩu của Tổng cục Hải quan cho biết thêm, trong tổng thời điểm từ khi đăng ký tờ khai đến khi thông quan/giải phóng hàng thì thời gian của hải quan chiếm 28%, còn lại thời điểm nhanh hay chậm phụ thuộc vào việc xử lý thủ tục của các cơ quan quản lý và điều hành chuyên ngành có liên quan đến quy trình tiến độ làm thủ tục hàng hoá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Những kiểm tra chuyên ngành này lại liên quan đến luật pháp của các bộ, ngành khác nhau, trong đó tình trạng phổ biến tại các bộ quản lý chuyên ngành là danh mục hàng xuất, nhập khẩu quá tải, không rõ rệt và có khá nhiều cách giải thích khác nhau.
Có thể thấy, trong những Lý do làm kéo dài thời điểm giải phóng hàng hoá xuất, nhập khẩu dẫn đến tăng chi phí logistics là giữa các cơ quan điều hành quản lý đang thiếu sự phối kết hợp đồng bộ để kế thừa công dụng báo cáo, kiểm tra của nhau, dẫn tới việc doanh nghiệp phải tự khai báo, chờ kiểm tra nhiều vòng làm thời gian thông quan hàng hoá bị kéo dài, gia tăng chi phí, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Quy mô doanh nghiệp nhỏ
Theo thống kê của VLA, hiện nay Việt Nam có khoảng 4.000 doanh nghiệp logistics bài bản và có mạng lưới dịch vụ quốc tế, trong số ấy 54% doanh nghiệp tập trung tại TPHCM.
Với số lượng doanh nghiệp gia tăng đáng kể, nguồn nhân lực sẵn có chưa thể đáp ứng kịp thời, tình trạng thiếu hụt nhân sự chất lượng cao, dẫn đến sự việc nhân lực ngành chưa được đào tạo bài bản về logistics, hạn chế về chất lượng dịch vụ, rất khó cạnh tranh với các công ty lớn quốc tế…
nhìn bao quát, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ logistics hoạt động ở quy mô vốn đăng ký nhỏ, số lượng lao động hạn chế. VLA đưa ra con số thống kê có tới 90% doanh nghiệp dịch vụ logistics tại Việt Nam có vốn điều lệ đăng ký dưới 10 tỉ đồng.
“Quy mô doanh nghiệp hạn chế là trong số những rào cản khi cung cấp chuỗi dịch vụ logistics tác dụng, cạnh trạnh ngay cả trên thị trường nội địa, chứ chưa nói trên khoanh vùng và thế giới”, ông Đỗ xuân Quang, Phó Chủ tịch thường trực VLA nhìn nhận.
Một vấn đề quan trọng cũng sẽ được ông Quang nêu ra trong bức tranh logistics nước ta là thói quen kinh doanh làm doanh nghiệp Việt mất đi lợi thế ngay chính “sân nhà”.
Ông Quang phân tích: Việt Nam chủ yếu vẫn luôn là gia công nên giá trị thực tế không cao, giá trị thu được chỉ khoảng 10% mỗi đơn hàng. Khi xuất khẩu, ta ship hàng đến mạn tàu (giá FOB), phía bạn hàng chỉ định hãng tàu và trả tiền vận chuyển. Chính vì vậy, xuất khẩu của nước ta dù có nhiều bao nhiêu thì đa số việc vận chuyển đều lâm vào tay những tập đoàn vận chuyển đa quốc gia.
“trong những năm qua, Chính phủ đã có những chính sách nhằm thay đổi phương thức trên như thưởng cho các đơn hàng xuất khẩu theo giá CIF nhưng vẫn chưa có nhiều chuyển biến. Chỉ nhìn vào khoảng 80% đơn hàng xuất khẩu giá FOB, 20% giá CIF cho thấy nhiều phần lợi nhuận của ngành đã rơi vào tay các tập đoàn nước ngoài ”, ông Quang nói.
Phan Trang - Thanh Thuỷ
(Chinhphu.vn)
>>> Nguồn: Gia tăng xuất khẩu – bước đầu từ logistics
0 nhận xét:
Đăng nhận xét